Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong câu

I. Trật tự trong câu đơn

1. Đoạn trích (SGK)

a). Nếu sắp xếp phần in đậm theo trật tự “rất sắc, nhưng nhỏ”

Nếu thay đổi trật tự phần in đậm thành: Đó là một con dao rất sắc, nhưng nhỏ thì nội dung, ý nghĩa và cấu tạo ngữ pháp của câu không sai. Nhưng đặt vào đoạn văn thì trật tự sắp xếp như vậy không phù hợp với mục đích của hành động (vì tác giả muốn nhấn mạnh mục đích đe dọa, uy hiếp bá Kiến của Chí Phèo).

b). Tác dụng của việc sắp xếp theo trật tự “nhỏ, nhưng rất sắc”

 Nếu đổi vị trí của từ nhỏ cho cụm từ rất sắc thì ý mà tác giả muốn biểu đạt (uy hiếp và đe doạ đối phương) không được nhấn mạnh mà còn bị giảm đi. Vì vậy, mục đích hăm dọa của Chí Phèo đối với bá Kiến cũng không được làm nổi bật.

c). So sánh với trật tự của các từ ngữ trong trường hợp sau:

- Nếu sắp xếp lại trật tự từ trong đoạn văn trên thì không hợp lí, nhưng với tình huống khác, ngữ cảnh khác, thì sự sắp xếp ngược lại có thể phù hợp hơn.

Ví dụ trong câu: Hắn có một con dao rất sắc nhưng nhỏ. Dao ấy thì làm sao chật được cành cây to này.

Vì mục đích của người nói muốn phủ định tác dụng của con dao (con dao tuy sắc nhưng nhỏ thì không thể chặt cành cây to được). Trong trường hợp này, việc đặt tính từ nhỏ ở sau rất sắc là hợp lí.

- Trong mỗi tình huống giao tiếp, cần xác định trọng tâm thông báo của câu từ mà có cách sắp xếp trật tự từ sao cho đạt hiệu quả biểu đạt cao nhất.

2. Giải thích lí do chọn lựa cách viết trong hai câu sau:

A. Bạn em nhỏ người nhưng rất thông minh. Thầy giáo dã đưa bạn ấy vào đội tuyển học sinh giỏi.

B. Bạn em rất thông minh, nhưng nhỏ người. Thầy giáo đã đưa bạn ấy vào đội tuyển học sinh giỏi.

- Trong hai cách viết trên, cách thứ nhất phù hợp hơn. Trong cách viết thứ nhất, cụm từ rất thông minh là trọng tâm thông báo, là luận cứ quan trọng nhất để dẫn tới kết luận "Thầy giáo đưa bạn ấy vào đội tuyển học sinh giỏi".

- Viết như câu thứ hai không phù hợp với lập luận, không làm nổi bật trọng tâm mà người nói muốn nhấn mạnh (sự thông minh của người bạn). Trong trường hợp thứ nhất, hai câu diễn đạt một lập luận, câu đầu nêu luận cứ, câu sau là kết luận. Câu đầu có hai luận cứ, trong đó luận cứ “rất thông minh" mang trọng tâm thông báo nên nó cần đặt sau để được làm nổi bật.

3. Tác dụng của mỗi cách sắp xếp bộ phận biểu hiện thời gian trong ba đoạn văn

- Ba đoạn văn đều có những bộ phận biếu hiện thời gian (trạng ngữ chỉ thời gian). Theo quy tắc ngữ pháp thì các bộ phận này đều có thể đặt ở đầu câu, giữa câu hay cuối câu. Tuy nhiên, trong mỗi văn cảnh cụ thể, vì mục đích khác nhau nên cách sắp xếp của từng tác giả lại khác nhau.

a). Đoạn văn 1:

... Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách /.../. Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt cõng Mị đi.

Sáng hôm sau, Mị mới biết mình dang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra...

(Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài)

- Trong đoạn văn này, trạng ngữ chỉ thời gian (Một đêm khuya) được đặt ở đầu câu vì nó đảm nhận chức năng nêu hoàn cảnh thời gian cho các sự kiện xảy ra sau đó (Mị bị bắt rồi bị đưa đi).

- Ở câu tiếp theo, phần trạng ngữ chỉ thời gian (Sáng hôm sau) vừa có tác dụng như trạng ngữ ở câu trên lại vừa có tác dụng liên kết câu. Không thế đặt nó ở cuối câu hay giữa câu, vì câu văn sẽ mất sự liên kết và các sự kiện được kể không liền mạch.

b). Đoạn văn 2:

... Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết...

Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương, đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp...

(Chí Phèo, Nam Cao)

- Trong câu văn này, trạng ngữ chỉ thời gian (một buổi sáng tinh sương) đặt ở giữa câu, đằng sau hành động của một chủ thể (Một anh đi thả ống lươn).

- Sở dĩ cần phải sắp xếp theo trật tự đó là do các câu văn trước đang tập trung vào vấn đề: Ai biết người nào đẻ ra Chí Phèo? Cho nên cần nối tiếp đề tài đó bằng việc nêu người hành động (chứ không phải thời gian của hành động) lên đầu câu.

c) Đoạn văn 3:

... Nhưng rồi hỏi ra mới biết rõ cô ấy không phái con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.

Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm.

(Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài) 

- Trong trường hợp này, bộ phận chỉ thời gian (đã mấy năm) đứng ở cuối câu. Do nhiệm vụ biểu thị phần tin mới, phần trọng tâm thông báo, về mặt ngữ pháp, nó không phải là thành phần chính của câu. Nhưng các thành phần chính (Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra) trong trường hợp này chỉ lặp lại một thông tin đã biết, đã được nhắc tới ở những câu trước đó (cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí).

- Điều quan trọng ở câu sau này là thời gian về làm dâu. Vì thế, tuy là thành phần thứ yếu về ngữ pháp nhưng lại quan trọng về mặt thông báo nên nó cần được đặt ở cuối câu, vị trí thường dành cho phần tin mới, tin quan trọng. Một lí do khác là việc đặt thành phần này ở cuối câu để báo trước một nội dung thông tin sẽ được nói tới (thông tin về cái ngày mà Mị chưa về làm dâu nhà Pá Tra).

II. Trật tự trong câu ghép

1. Nếu thay đổi những câu ghép ở các đoạn trích thì nội dung và mạch ý có thay đổi?

 a). Chí Phèo đoán chắc rằng một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Định về. Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước cỏ một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.

(Chí Phèo, Nam Cao)

- Trong đoạn văn trên, vế chỉ nguyên nhân của câu ghép (vế in đậm) đặt sau vế chính (Hắn lại nao nao buồn) vì vế chính còn liên hệ với câu trước đó (tiếp tục cung cấp những thông tin về dòng suy nghĩ của Chí Phèo) và gắn với câu sau, vì câu sau này chính là câu cụ thể hóa cho ý "một cái gì đó rất xa xôi".

- Vế chính đặt trước để liên kết dễ dàng với những câu đi trước, còn vế phụ đặt sau (không theo trật tự thuận thường thấy của câu ghép chính phụ) để liên kết dễ dàng hơn với những câu sau.

b). Thưa cụ, việc đó là việc riêng của chị cháu. Tùy ý chị cháu cư xử. Cháu không có quyền lạm bàn tới, tuy đối với chị cháu cũng như đối với quan huyện, cháu vẫn là người chịu ơn.

(Nửa chừng xuânKhái Hưng)

Trong câu ghép, vế chỉ nhượng bộ (tuy đối với chị cháu cũng như đối với quan huyện) được đặt sau để nhấn mạnh ý cũng như bổ sung một thông tin cần thiết.

5. Lựa chọn câu văn thích hợp điền vào chỗ trống đầu đoạn văn (SGK)

- Để lựa chọn câu văn có trật tự tối ưu và ứng với vị trí đầu đoạn cả về ngữ pháp và ý nghĩa, cần xem xét quan hệ của nó với các câu còn lại trong đoạn.

- Các câu còn lại trong đoạn đều nói về việc trong các thời kì khác nhau trước đây, nhiều người nổi tiếng đã phát triển các phương pháp đọc nhanh và nắm vững nó. Nghĩa là các câu này đều nói về thời kì trước đây, điều này có nghĩa câu đầu nói về những năm gần đây. Hơn nữa, các câu sau chỉ cụ thể hóa một ý quan trọng trong một vế của câu ghép đi đầu: phương pháp đọc nhanh không phải là điều mới lạ. Vì vậy, để liên kết chặt chẽ với các câu sau theo quan hệ diễn dịch thì ở câu đầu (vị trí để trống) cần:

+ Đặt trạng ngữ "Trong những năm gần đây" ở đầu câu để đối lập với trạng ngữ "Trong các thời kì khác nhau trước đây" ở câu thứ 2.

+ Giữa hai vế của câu ghép cần đặt vế "nó không phải là điều lạ" ở sau (vế trước là "các phương pháp đọc nhanh đã được phổ biến khá rộng") vì đó là vế chứa thông tin quan trọng nhất và có tác dụng liên kết ý với các câu sau.

- Như vậy, ứng với các tiêu chí trên, cần chọn phương án c.